Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2011

LUẬT HNGĐ


LUẬT HNGĐ
Câu 1: Kết hôn là gì? Kết hôn có fải là một quyền dân sự của cá nhân không?
* Khái niệm:Theo quy định tại K.2, Đ.8 - luật HN&GĐ năm 2000: "Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định of PL về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn".
Nam nữ muốn trở thành vợ chồng hợp fáp fải đảm bảo yếu tố:
+ Fải tự nguyện và mong muốn trở thành vợ chồng hợp fáp of nhau.
+ Fải tuân thủ các điều kiện kết hôn và làm đăng ký KH theo quy định of luật HN&GĐ.
* Kết hôn là một quyền dân sự of cá nhân được quy định trong Bộ luật Dân sự (Điều 35), theo đó nam, nữ có đủ KH theo quy định of PL về HN&GĐ có quyền tự do KH, khơng bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cản trở hơn nhân tự nguyện, tiến bộ or cưỡng ép kết hôn.
Việc tự do kết hôn giữa ~  l thuộc các dân tộc, tôn giáo ≠ nhau, giữa  ~  l theo tôn giáo và ~  l o theo tôn giáo được tôn trọng và được PL bảo vệ.

Câu 2: Trình bàycác điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn?
1/ Các Đ/K kết hôn: Theo quy định tại điều 9- luật HNGĐ năm 2000:
- Về độ tuổi: Phải đủ tuổi do PL HN&GĐ quy định. cụ thể là: Nam fải từ 20 tuổi trở lên và nữ phải từ 18 tuổi trở lên (K1, Đ9).
+ Theo quy định của luật HNGĐ 1959, 1986 thì nam phải tròn 20 tuổi còn nữ phải tròn 18 tuổi.
+ Theo luật HNGĐ 2000 và NĐ 70/NĐ-CP ngày 03/10/2001 thì nam qua sinh nhật 19 tuổi + 1 ngày, nữ thì bước qua sinh nhật 17 tuổi + 1 ngày.
- Về ý chí: Phải có sự tự nguyện của 2 bên nam nữ khi kết hôn.
Việc kết hôn phải do chính đôi nam nữ lựa chọn và tự nguyện quyết định vì đây là quyền của họ. Mọi trường hợp ccưỡng ép, cản trở kết hôn đều trái PL.
Việc lựa chọn và QĐ của họ phải được trình bày công khai trước cơ quan NN có thẩm quyền (UBND nơi đăng ký kết hôn) và được thể hiện = hành động là ký vào sổ kết hôn... theo thủ tục do nhà nước quy định.
- Về pháp lý: Việc kết hôn ngoài những đ/k nói trên phải o thuộc tr/hợp cấm kết hôn quy định tại điều 10 luật HNGĐ năm 2000.
2/ Các trường hợp cấm kết hôn: (Điều 10)
+ Người đang có vợ or có chồng (o tuân thủ nguyên tắc 1 vợ, 1 chồng) (K1, Đ10): Thông tư số 60/TANDTC ngày 22/02/78 áp dụng đ/v CB, bộ đội miền nam tập kết ra bắc từ năm 1954 đến trước ngày 25/3/77 ngày hội đồng Chính phủ ban hành NQ số 76 quy định V/v thực hiện PL thống I trong fạm vi cả nước, trong đó có đạo luật số 13 về HNGĐ (luật HN&GĐ 1959).
+ l bị mất năng lực hành vi dân sự (K2, Đ10): Được hiểu là l o có khả năng nhận thức được hành vi of mình ¤ việc xác lập qhệ HN&GĐ cũng như các giao dịch dân sự.
+ Giữa ~ người có cùng dòng máu trực hệ, giữa ~ l có họ ¤ fạm vi 3 đời (K3, Đ10).
. Cùng dòng máu trực  hệ: là cha, mẹ đ/v con; ông, bà đ/v cháu nội, cháu ngoại.
. Có họ trong fạm vi 3 đời: là những người cùng 1 gốc sinh ra: cha mẹ (I); Anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ or cùng mẹ khác cha (II); anh chị em con chú bác, con cô cậu, con dì (III).
+ Giữa ~ người có qhệ thân thuộc (K4, Đ10): cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng of chồng.
+ Giữa ~ người cùng giới tính (K5, Đ10)

Câu 3: Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại có fải đăng ký kết hôn o?
Việc ĐKKH khi nam nữ kết hôn (xác lập qhệ vợ chồng) là quy định bắt buộc. Sau khi đã ly hôn thì nam, nữ o còn là vợ chồng nữa, nghĩa là về mặt fáp lý qhệ HN of họ đã chấm dứt vì vậy nếu muốn kết hôn lại thì fải ĐKKH theo quy định of PL . Chỉ sau khi ĐKKH họ mới được coi là vợ chồng hợp fáp và qhệ HN of họ mới được PL bảo vệ (Điều 11 luật HN&GĐ năm 2000).     
*Lưu ý: Việc ĐKKH fải thực hiện tại trụ sở UBND cấp xã).

Câu 4: Thế nào là kết hôn trái fáp luật? Những trường hợp nào bị coi là kết hôn trái fáp luật?
* KN: Kết hôn trái PL là việc xác lập qhệ vợ chồng có ĐKKH nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do PL quy định (K3, Đ8). Tức là việc kết hôn tuy đã được ĐKKH tại cơ quan NN có thẩm quyền nhưng sau đó mới fát hiện 1 or 2 bên kết hôn vi fạm điều kiện KH do PL quy định.
* Những trường hợp sau đây bị coi là kết hôn trái fáp luật:
+ Kết hôn mà 1 or cả 2 bên nam, nữ chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của PL.
+ Thiếu sự tự nguyện of 1 or cả 2 bên kết hôn do bị cưỡng ép lừa dối.
+ Î tr/hợp bị cấm kết hôn, cụ thể như sau:
- 1 or cả 2 bên kết hôn là người đang có vợ or có chồng.
- Khi kết hôn mà 1 or cả 2 bên kết hôn là người bị mất năng lực hành vi dân sự.
- Giữa các bên kết hôn là l có cùng dòng máu trực hệ or là ~ l có họ ¤ fạm vi 3 đời.
+ 2 bên kết hôn với nhau đang là or đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng of vợ, mẹ kế với con riêng of chồng.
+ 2 bên kết hôn là ~ người cùng giới tính.

Câu 5: Đường lối xử lý các trường hợp kết hôn do vi phạm các điều kiện kết hôn ( xem kỷ làm bài tập)
Theo quy định của luật HNGĐ thì về nguyên tắc, TA có quyền hủy việc kết hôn trái PL. Tuy nhiên, hủy việc kết hôn trái PL gây hậu quả xấu đến bản thân 2 người kết hôn và con cái họ. Vì vậy, trong quá trình xử lý cần cân nhắc để có QĐ phù hợp. Tùy từng trường hợp cụ thể có thể căn cứ vào hoàn cảnh của sự vi phạm điều kiện kết hôn, thực trạng quan hệ của 2 bên trong thời gian chung sống và hiện tại sự vi phạm đó còn tiếp diễn hay đã chấm dứt để TA có thể QĐ hủy hay o hủy việc kết hôn đó.
Theo nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC V/v hường dẩn áp dụng một số quy định của luật HN&GĐ năm 2000:
A/ Xử lý hôn hhân vi phạm điều 9 (điều kiện kết hôn)
* Hôn nhân vi fạm khoản 1 điều 9 (độ tuổi kết hôn): Theo điểm d.1 khoản 2 của nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000:
+ Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái PL mà 1 bên hoặc cả 2 bên vẫn chưa đến tuổi kết hôn thì quyết định hủy việc kết hôn trái PL.
+ Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái PL cả 2 bên tuy đã đến tuổi kết hôn, nhưng cuộc sống của họ trong time qua đã không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng thì quyết định hủy việc kết hôn trái PL.
+ Nếu đến thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái PL cả 2 bên đã đến tuổi kết hôn, trong time đã qua họ chung sống bình thường, đã có con, có tài sản chung thì không quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật. Nếu mới fát sinh mâu thuẩn và có yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn thì Tóa án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
 * Hôn nhân vi fạm khoản 2 điều 9 (Khi 1 bên bị ép buộc, bị lừa dối or bị cưỡng ép kết hôn): Theo điểm d.2 khoản 2 của nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000:
 + Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa dối or bị cưỡng ép kết hôn mà cuộc sống of họ không có hạnh phúc, không có tình cảm, thì quyết định hủy việc kết hôn trái PL.
+ Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa dối or bị cưỡng ép kết hôn mà bên bị ép buộc, bị lừa dối or bị cưỡng ép đã biết, but đã thông cảm, tiếp tục chung sống hòa thuận thì không quyết định hủy việc kết hôn trái PL. Nếu mới fát sinh mâu thuẩn và có yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn thì Tòa án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung. Nhưng nếu fát hiện 1 trong 2 bên đã có vợ (or có chồng) mà lừa dối để kết hôn thì tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái PL đó bất kể cả 2 có sống với nhau hạnh phúc hay không.

B/ Xử lý hôn nhân vi phạm điều 10 (vi fạm điều kiện kết hôn quy định tại K3, Đ9)
® Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái PL.
Tuy nhiên, khi xử lý cần lưu ý những trường hợp sau: Theo điểm d.3 khoản 2 của nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000:
+ Đ/v CB, bộ đội miền nam, đã có vợ (có chồng) ở miền nam tập kết ra bắc năm 1954 mà lấy vợ hoặc chồng khác ở miền bắc thì theo hướng dẫn tại thông tư số 60/TATC  ngày 22/02/1978 của TANDTC V/v "Hướng dẫn giải quyết các trưởng hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác", đây là những trường hợp ngoại lệ, có vi phạm khoản 1 điều 10 nhưng không I thiết phải hủy việc kết hôn sau của họ mà tùy từng trường hợp, TAND các cấp g/q khi có y/c của các đương sự. Tòa án có thể g/q cho ly hôn nếu các đương sự thực sự mong muốn được chấm dứt HN. Trong trường hợp người vợ hoặc người chồng trước ở miền Nam y/c hủy việc kết hôn của người chồng hoặc vợ mình với người ở miền bắc thì tòa án cần giải thích cho họ thấy rõ hoàn cảnh của đất nước dẫn đến tình trạng này và khuyên họ rút đơn. Nếu không rút đơn thì “tòa án đưa ra xét xử và trong trường hợp đó không thỏa mãn được y/c của đương sự. Cá biệt, nếu khi điều tra có bằng chứng rõ ràng rằng người tập kết đã có vợ, có chồng ở miền nam lại nói dối là chưa, nay người vợ hoặc người chồng lấy sau cho rằng bị lừa dối nên xin hủy việc kết hôn của họ thì tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái PL đó.
+ 1 người đang có vợ hoặc có chồng, nhưng tình trạng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mà kết hôn với người khác, nếu khi có y/c hủy việc kết hôn sau họ đã ly hôn với người vợ hoặc người chồng của lần kết hôn trước thì không QĐ hủy việc kết hôn trái PL đ/v lần kết hôn sau. Nếu sau đó mới phát sinh mâu thuẩn và có y/c TA g/q việc ly hôn thì TA thụ lý để g/q ly hôn theo thủ tục chung.
- Nếu khi 1 người người đang có vợ (or có chồng), but tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mà đã kết hôn với người khác, thì lần kết hôn sau là thuộc tr/hợp cấm kết hôn quy định tại K1, Đ10. Tuy nhiên khi có yêu cầu hủy việc kết hôn trái PL mà họ đã ly hôn với vợ trước or chồng trước và đã có bản án, QĐ của tòa án g/q cho ly hôn thì tòa án không quyết định hủy việc kết hôn trái PL đ/v lần kết hôn sau.
* Lưu ý: Căn cứ nghị quyết 02 thì khi giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái PL mà xét thấy hành vi vi phạm của các bên nam nữ khi kết hôn có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì tòa án yêu cầu viện kiểm sát cùng cấp khởi tố vụ án hình sự, nếu viện kiểm sát cùng cấp không đồng ý khởi tố vụ án hình sự thì tòa án tiếp tục kiến nghị viện kiểm sát cấp trên  của viện kiểm sát đó xem xét. Nếu viện kiểm sát cấp trên cũng không đồng ý thì tòa án tiếp tục giải quyết yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật theo thủ tục chung.
Trong trường hợp viện kiểm sát đồng ý khởi tố vụ án hình sự thì tòa án áp dụng điểm d khoản 1 điều 45 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra QĐ tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án. Sau khi vụ án hình sự được xét xử xong và bản án, QĐ hình sự đã có hiệu lực pháp luật thì tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

C/ Xử lý hôn hôn nhân do vi fạm đăng ký kết hôn tại UBND cơ sở:
Quy định tại điều 12, điều 14 - luật HNGĐ 2000 và NĐ số: 183/NĐ-CP ngày 10/10/98 của CP:
+  Việc đăng ký kết hôn không fải do cơ quan có thẩm quyền quy định tại điều 12 thực hiện thì việc ĐKKH đó không có giá trị pháp lý; nếu có y/c hủy việc kết hôn trái PL, thì mặc dù vi fạm 1 trong các đ/k kết hôn tại Điều 9, Tòa án không tuyên bố hủy kết hôn trái PL mà áp dụng khoản 1 điều 11 tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng (điểm b, khoản 2 – NQ: 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000).
+ Việc đăng ký kết hôn không theo nghi thức được quy định tại Điều 14 luật HNGĐ 2000 thì việc kết hôn đó không có giá trị pháp lý. Do vậy, khi có y/c hủy việc kết hôn trái PL thì dù có vi phạm 1 trong các ĐK kết hôn được quy định tại điều 9, TA cũng không tuyên bố hủy việc kết hôn trái PL mà áp dụng khoản 1 điều 11 tuyên bố không công nhận các bên kết hôn là vợ chồng (điểm c, khoản 2 - NQ 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000).
Trong thực tế có 1 số trường hợp vì những lý do khách quan hay chủ quan mà khi tổ chức đăng ký kết hôn chỉ có 1 bên nam hoặc nữ, nhưng nếu trước khi tổ chức đăng ký kết hôn các bên đã thực hiện đúng quy định tại khoản 1 điều 13 luật HNGĐ và sau khi tổ chức đăng ký kết hôn họ thực sự về chung sống với nhau, thì không coi việc đăng ký kết hôn đó là không theo nghi thức quy định tại điều 14 (Mục 2, điểm c2, NQ 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000). Vì vậy, đ/v ~ trường hợp này, việc kết hôn đó vẫn coi là hợp pháp

D/ Nam, nữ chung sống với nhau như vợ, chồng nhưng o đăng ký kết hôn theo quy định tại điều 11:
Điều 11 luật HNGĐ quy định việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan đăng ký kết hôn thực hiện theo nghi thức PL đã quy định. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ, chồng thì không được PL công nhận là vợ chồng. Kể từ ngày luật HNGĐ năm 2000 có hiệu lực, Nhà nước ta chỉ thừa nhận nam nữ là vợ chồng khi họ đã được cơ quan đăng ký kết hôn cấp giấy chứng nhận kết hôn. Luật HNGĐ năm 1986 cũng quy định việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giữa các bên nam nữ mới phát sinh quan hệ vợ chồng. Tuy vậy, trong thực tế việc thi hành quy định trên không triệt để. hiện tượng nam nữ chỉ tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn xảy ra tương đối nhiều. Theo NQ 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC V/v hướng dẫn thi hành luật HNGĐ 1986 thì công nhận việc họ chung sống đó là hợp pháp và giữa họ vẫn phát sinh quan hệ vợ chồng. Như vậy, quan điểm của 2 văn bản luật là khác nhau đ/v việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Do đó, khi xử lý các tranh chấp tòa án cần phân biệt các trường hợp nam nữ chung sống trước và sau ngày luật HNGĐ 2000 có hiệu lực để QĐ đúng đắn. Theo NQ: 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của QH V/v thi hành luật HNGĐ năm 2000, hướng dẩn g/q các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng but o đăng ký kết hôn như sau: Việc áp dụng quy định tại K1, Đ11 - luật HN&GĐ năm 2000 được thực hiện như sau:
+ Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày luật HNGĐ 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có y/c ly hôn thì tòa án thụ lý g/q theo thủ tục chung (điểm a, khoản 3 – NQ: 35/2000/QH10-09/6/2000)
+ Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ ĐKKH theo quy định của luật HNGĐ 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm kể từ ngày luật HNGĐ 2000 có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003. Trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn nhưng có y/c ly hôn thì tòa án áp dụng các quy định về ly hôn để g/q. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không ĐKKH thì PL không công nhận họ là vợ chồng. (điểm b, khoản 3 – NQ: 35/2000/QH10-09/6/2000)
+ Kể từ ngày 01/01/2001 trở đi (trừ 2 trường hợp trên), nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không ĐKKH thì PL không công nhận họ là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoàn 2 và khoản 3 của luật HN&GĐ để giải quyết. (điểm c, khoản 3 – NQ: 35/2000/QH10-09/6/2000)                  

Câu 6: Hậu quả fáp lý của việc PL không công nhận quan hệ vợ chồng và hủy kết hôn trái PL? (xem kỷ làm bài tập)
1/ Hậu quả pháp lý của việc không công nhận quan hệ vợ chồng:
Tòa án thụ lý vụ án về HNGĐ o phải chỉ g/q cho ly hôn hay hủy hôn nhân mà còn g/q theo 3 y/c sau:
- Qhệ nhân thân (qhệ vợ chồng): Áp dụng K1, Đ11 - luật HN&GĐ năm 2000 và tùy theo từng tr/hợp mà áp dụng thêm điểm b or điểm c khoản 3 NQ: 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 ® Tuyên bố  o công nhận họ là vợ chồng hợp pháp. (if TA tuyên bố họ o fải là vợ chồng hợp pháp thì họ o có quyền y/c TA QĐ người kia fải cấp dưỡng cho mình. HN o hợp fáp cho nên o được tiến hành hòa giải).
- Qhệ giữa cha mẹ và con: o phân biệt con trong giá thú hay con ngoài giá thú đều áp dụng khoản 2 điều 17 và điều 92, 93, 94 - luật HN&GĐ năm 2000
+ Nếu 2 bên tự nguyện thỏa thuận giao con cho người này hoặc người kia nuôi Þ Tòa án công nhận = bản án.
+ Nếu có tranh chấp xảy ra thì con dưới 3 tuổi giao cho mẹ nuôi; con từ 3 tuổi đến dưới 9 tuổi khi giao con cho ai nuôi phải xem xét điều kiện thực tế của cha or mẹ để giao con; con từ 9 tuổi đến dưới 18 tuổi khi giao con cho cha or mẹ nuôi phải hỏi ý kiến của con xem muốn ở với cha hay mẹ (điều 92 quy định); người nào o nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, mức cấp dưỡng lấy mức trung bình giữa 2 bên đề nghị cấp dưỡng nhưng không được dưới 50% mức lương tối thiểu vào thời điểm g/q và o quá 50% mức thu nhập của người cấp dưỡng (o nuôi con). Lưu ý người o nuôi con vẫn có quyền tới lui thăm con.
- Quan hệ tài sản:
Áp dụng K3, Đ17- luật HN&GĐ năm 2000 và điều 231 BLDS  năm 1995:
+ Tài sản của riêng ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó (K3, Đ17).
+ Tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì y/c tòa án g/q, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con theo quy định của PL về HNGĐ (K3, Đ17).
2/ Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái PL:
Điều 16, 17 - luật HN&GĐ năm 2000
Về ng/tắc việc kết hôn (hay xác lập quan hệ hôn nhân) trái PL không có giá tri fáp lý và không được PL bảo vệ. Theo y/c của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án xem xét và quyết định việc hủy kết hôn trái PL (Đ16). Cụ thể là:
+ Khi việc kết hôn trái PL bị hủy, các bên không được tiếp tục chung sống nghĩa là fải chấm dứt quan hệ vợ chồng (Đ17); nếu tiếp tục chung sống, thì bị xử lý theo quy định của PL.
+ Trong trường hợp các bên có con chung thì quyền lợi của các con được g/q như tr/hợp cha mẹ ly hôn.
+ Tài sản của những người kết hôn trái PL bị hủy được g/q theo nguyên tắc sau:
. Tài sản của riêng ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó (K3, Đ17).
. Tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì y/c tòa án g/q, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con theo quy định của PL về HNGĐ (K3, Đ17).
* Lưu ý:
+ Trước ngày 01/01/05: (Áp dụng Pháp lệnh thủ tục g/q các vụ án dân sự - 21/11/89 có hiệu lực 01/01/90 để g/q)
- Qhệ nhân thân.
- Qhệ giữa cha mẹ với con.
- Qhệ tài sản.
+ Từ ngày 01/01/05: (Áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 có hiệu lực 01/01/05 để g/q). Tại Điều 28 quy định: Việc hủy kết hôn trái PL là việc dân sự ® Tòa án thụ lý chỉ g/q 1 vấn đề là quan hệ nhân thân. Nếu có tranh chấp về quan hệ tài sản và quan hệ giữa cha, mẹ với con thì giải quyết bằng vụ án dân sự.
. Việc dân sự: Tòa án thụ lý g/q (30 ngày) ® kháng cáo 07 ngày (khi bản án, QĐ of Tòa án có hiệu lực)
. Vụ án dân sự: Tòa án thụ lý g/q (4 tháng – 6 tháng) ® kháng cáo 15 ngày (khi bản án, QĐ of Tòa án có hiệu lực).
Câu 7: So sánh hậu quả pháp lý giữa hủy việc kết hôn trái PL với ly hôn:
Khoản 3 điều 8 luật HNGĐ năm 2000 quy định :”kết hôn trái PL là việc xác lập qhệ vợ chồng có ĐKKH nhưng vi phạm các ĐK kết hôn do PL quy định”. Như vậy việc kết hôn trái PL là việc kết hôn tuy đã được ĐKKH tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 9, 10 luật HNGĐ năm 2000). Hôn nhân trái PL sẽ bị tòa án hủy hôn nhân, khi xử lý hôn nhân trái PL phải dựa trên cơ sở ~ căn cứ.
Khoản 8 điều 8 luật HNGĐ quy định : “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả 2 vợ chồng”.
* Điểm giống:
- Quan hệ con cái với cha mẹ:
- Quan hệ tài sản:
* Điểm # :
- Quan hệ nhân thân: Đ/v việc hủy kết hôn trái PL thì không được tiến hành hòa giải còn đ/v ly hôn thì trước khi ly hôn phải tiến hành hòa giải ở cơ sở và hòa giải theo thủ tụng tố tụng dân sự được quy định tại điều 86 và và điều 33 luật HNGĐ năm 2000.
- Quan hệ tài sản:
+ Đ/v việc hủy kết hôn trái PL thì tài sản chung chia theo công sức đóng góp, có ưu tiên bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em; phân biệt đâu là tài sản do người chồng or người vợ làm ra; còn đ/v ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, khi ly hôn không phân biệt đâu là tài sản của vợ đâu là tài sản của chồng.
+ Đ/v việc hủy kết hôn trái PL thì không có quyền yêu cầu l kia cấp dưỡng cho mình còn đ/v ly hôn thì được quyền y/c người kia cấp dưỡng cho mình sau khi ly hôn.
+ Đ/v việc hủy kết hôn trái PL thì khoản nợ chung mỗi người sẽ trả 50%, còn nợ riêng của ai thì người đó nấy trả còn đ/v ly hôn việc thanh toán nghĩa vụ về tài sản thì do vợ chồng tự thỏa thuận, nếu o thỏa thuận được thì y/c TA g/q.

Câu 8: Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng?
* Tình nghĩa vợ chồng:(Đ18) "Vợ chồng chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững." Quy định này of luật đ
 * Bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng: (19) "Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình".
* Lựa chọn nơi cư trú của vợ, chồng:(Đ20) "Nơi cư trú của vợ, chồng do vợ chồng lựa chọn, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính".
* Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng:(Đ 21)
+ Vợ, chồng tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.
+ Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau.
* Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng: (Đ22) "Vợ, chồng tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau; không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào".
* Giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt: (Đ23) "Vợ, chồng cùng bàn bạc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau chọn nghề nghiệp, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mọi người".
* Đại diện cho nhau giữa vợ, chồng:(Đ24)
+ Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ, chồng; việc ủy quyền phải được lập thành văn bản.
+ Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó.
* Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện: (Đ25) "Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình".
* Quan hệ hôn nhân khi một bên bị tuyên bố là đã chết mà trở về: (Đ26) "Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết theo quy định tại Điều 93 của Bộ luật dân sự mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục; trong trường hợp vợ hoặc chồng của l đó đã kết hôn với l khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật".

Câu 10: Căn cứ xác lập tài sản chung hợp I của vợ chồng ?
Theo quy định tại điều 27 luật HNGĐ 2000:
Tài sản chung của vợ chồng bao gồm: Tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động SXKD và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ HN. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Như vậy tài sản chung of vợ chồng được xây dựng căn cứ vào nguồn gốc of tài sản bao gồm: tiền lương, tiền thưởng, lương hưu, tiền trợ cấp thôi việc, tiền bảo hiểm;  các khoản thu nhập về SX ở gia đình như: chăn nuôi, trồng trọt, hoa màu or làm kinh tế fụ gia đình cùng các khoản thu nhập hợp fáp khác of  vợ chồng không fân biệt mức thu nhập of mỗi bên. Các tài sản vợ chồng mua sắm được từ các nguồn nói trên or tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung or được tặng cho chung. Trong Tr/hợp không có chứng cư c/m tài sản vợ chồng đang tranh chấp là tài sản riêng of mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
Đ/v quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung of vợ chồng theo ng/tắc thu nhập hơp fáp khác có trong thời kì hôn nhân; còn quyền sử dụng đất theo quy định of PL mà vợ chồng có trước khi kết hôn được thừa kế riêng thì chỉ là tài sản chung of vợ chồng khi có sự thỏa thuận. Tài sản chung of vợ chồng Î sở hữu chung hợp I nên PL quy định vợ chồng fải đăng ký quyền sở hữu or quyền sử dụng fải ghi tên cả 2 l.
Lưu ý: Trong trường hợp vợ chồng có tranh chấp về tài sản mà không có chứng minh tài sản có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó (đương nhiên) là tài sản chung.
Ngoài ra nếu xét dưới góc độ kinh tế thì tài sản của vợ chồng can fân thành 2 nhóm sau:
+ Tư liệu tiêu dùng gồm: tiền, vàng (nữ trang), tủ, bàn, ghế, xe gắn máy, tủ lạnh ... được dùng vào sinh hoạt gia đình.
+ Tư liệu sx gồm: tiền (vốn), vàng, ngoại tệ, kho, nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện... phục vụ cho việc KD của vợ chồng.
(xây 1 căn nhà, mua 1 chiếc xe gắn máy...)

Câu 11: Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng?
Theo quy định tại điều 28 luật HNGĐ 2000: Về nguyên tắc thì vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, cụ thể là:
- TS chung của vợ chồng được chi dùng để :
+ Đảm bảo nhu cầu chung của gia đình (ăn, mặc, ở, mua sắm, chi phí cho việc nuôi con...);
+ Thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng (như trả các khoản nợ vay...), kể cả việc thực hiện nghĩa vụ do hành vi trái PL của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra như bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra... (nếu có).
- Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài chung có giá trị lớn (như nhà ở, xe gắn máy...) hoặc là nguồn sống duy I (như xe vận tải là phương tiện tạo ra thu nhập cho cả gia đình...) của gia đình và việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh đều do vợ, chồng bàn bạc, thỏa thuận trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh chung.
Xuất phát từ nguyên tắc vợ chồng có quyền ngang nhau đ/v việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, do đó không bên nào có quyền tự ý chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đ/v khối tài sản chung (thuộc đối tượng nêu trên) mà không được sự đồng ý của bên kia. Trong trường hợp 1 bên vợ hoặc chồng không đồng ý nhưng bên kia vẫn cố tình (có thể bằng mọi thủ đoạn) chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản chung, thì hành vi đó cả các giao dịch mà họ đã xác lập, thực hiện liên quan đến tài sản đó là trái PL.
EX: Vợ chồng có tài sản chung là căn nhà, người chồng đã tự ý bán nhà để lấy vốn kinh doanh mà không được sự đồng ý của người vợ. Trong trường hợp này thì việc định đoạt tài sản của người chồng và giao dịch liên quan đến căn nhà (hợp đồng mua bán nhà là trái PL).

Câu 12: Khi hôn nhân tồn tại, vợ chồng có quyền y/c TA phân chia tài sản chung không?
Luật HNGĐ 2000 quy định khá chặt chẽ v/đ chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ HN (Đ29, Đ30). Mặc dù luật vẫn công nhận quyền tự định đoạt của vợ chồng đ/v tài sản chung nhưng vẫn hạn chế = 1 số ĐK I định, cụ thể là vợ chồng chỉ được chia tài sản chung trong các trường hợp sau :
- Vợ chồng dùng tài sản để đầu tư kinh doanh riêng.
- Vợ chồng thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng (bồi thường thiệt hại).
- Vợ chồng đã quá già, có mâu thuẩn trầm trọng hoặc 2 vợ chồng tính tình không hợp nhưng xin ly hôn sẽ ảnh hưởng đến con cái, uy tín, danh dự.
- Có lý do chính đáng (1 bên nghiện hút, cờ bạc, fá tán tài sản).
è Việc chia tài sản nêu trên do vợ chồng thỏa thuận (nhưng phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực), nếu không thỏa thuận được thì có quyền y/c TA g/q. Theo quy định tại NĐ 70/CP ngày 03/10/2001 thì TA chỉ chia tối đa 70% số tài sản, còn lại 30% giữ lại cho các th/viên # ¤ gia đình.
è Việc chia tài sản chung of vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản thì o được PL công nhận. Đây là điểm quy định mới và chặt chẽ so với luật HN&GĐ năm 1986.

Câu 13: Quyền thừa kế tài sản giữa vợ hoặc chồng khi 1 bên chết trướco?
Việc thừa kế tài sản của vợ chồng (quy định tại điều 31) phải tuân theo quy định của PL về thừa kế. Cụ thể là:
- Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo di chúc hoặc theo PL.
Xét theo hàng thừa kế thì vợ, chồng là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ 1 nếu thừa kế tài sản của nhau theo PL.
- Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị TA tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
Tuy nhiên nhằm ảnh hưởng xấu của việc chia di sản (nếu có) đ/v đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình, luật HNGĐ 2000 có quy định cho phép bên còn sống được quyền y/c TA chưa cho chia di sản trong 1 thời hạn nhất định (thời hạn này phải hợp lý và phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của những người thừa kế còn sống). Nếu hết thời hạn do tòa án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu TA cho chia di sản thừa kế.

Câu 14: Thế nào là tài sản riêng của vợ, chồng?
1/ Tài sản riêng of vợ chồng (Điều 27):
Kế thứ luật HNGĐ năm 1986, Luật HNGĐ năm 2000 quy định rõ hơn quyền có tài sản riêng of vợ chồng: Cụ thể như sau:
Tài sản riêng của vợ chồng bao gồm:
- Tài sản mỗi người có trước khi kết hôn.
- Tài sản được thừa kế riêng (trong thời kì hôn nhân)
- Đồ dùng, tư trang cá nhân (như quần, áo, chăn, màn...)
- tài sản mà vợ chồng thỏa thuận chia or do Tòa án chia riêng cho mỗi người trong thời kì hôn nhân.
Ngoài ra vợ chồng có quyền nhập or không nhập tài sản riêng of mình (nếu có) vào khói tài sản chung.
2/ Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng of vợ chồng (Điều 33)
Về ng/tắc thì vợ, chồng fải tự quản lý tài sản riêng của mình. Trong tr/hợp vì lý do nào đó mà 1 bên không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia (vợ or chồng) có quyền quản lý tài sản đó.
- Tài sản riêng of vợ, chồng được dùng để thực hiện nghĩa vụ riêng của người đó. Ngoài ra Luật còn qui định tài sản riêng of vợ, chồng cũng được use vào các nhu cầu thiết yếu of gia đình (như ăn, ở, chữa bệnh...) trong tr/hợp TS chung không thể đáp ứng đủ các nhu cầu đó.
- Ttrong tr/hợp tài sản riêng of vợ, chồng đã được đưa vào use chung cho gia đình mà hoa lợi, lợi tức từ TS riêng đó là nguồn sống duy I of gia đình thì việc định đoạt tài sản đó fải được sự bàn bạc thỏa thuận of cả vợ chồng. Điều này có nghĩa là người có TS riêng bị hạn chế quyền định đoạt được TS đó trong tr/hợp cần bảo đảm lợi ích cấp thiết (nguồn sống duy I) của gia đình. Quy định này mang tính nhân đạo và bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống ¤gia đình, cho fép cá nhân vợ or chồng vì lợi ích riêng mà thiếu trách nhiệm đ/v gia đình.

Câu 15:  Thế nào là ly hôn ? Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn ?
* Theo quy định tại khoản 8, điều 8, chương I – Luật HN&GĐ năm 2000:  “ Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng “.
* Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn: (Đ92)
1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác.

Câu 16: Ly hôn có phải là 1 quyền dân sự không?
Ly hôn thực chất là mặt trái, mặt không thể thiếu được trong quan hệ HN. Việc ly hôn phát sinh khi quan hệ vợ chồng đã đổ vỡ không thể hàn gắn được.
Trước đây do ảnh hưởng bởi những quan niệm cũ lạc hậu thì việc ly hôn bị coi là hiện tượng không bình thường, phần nào bị XH lên án và bị hạn chế,I là đ/v phụ nữ việc chủ động xin ly hôn là điều khó can chấp nhận.
Tuy nhiên những năm gần đây cách nhìn nhận v/đ ly hôn có xu hướng thoáng hơn và ly hôn được xem như 1 hiện tượng bình thường, 1 quyền dân sự của cá nhân được PL ghi nhận và bảo vệ.
Điều 38 BLDS quy định "vợ hoặc chồng hoặc cả 2 vợ chồng có quyền y/c tòa án chấm dứt quan hệ HN khi có lý do chính đáng". Tại khoản 1 điều 85 luật HNGĐ cũng quy định: "vợ, chồng hoặc cả 2 người có quyền y/c tòa án g/q việc ly hôn".








Câu 17: Tòa án chỉ nhận đơn yêu cầu ly hôn trong trường hợp nào?
* Về nguyên tắc Tòa án chỉ nhận đơn y/c ly hôn trong các tr/hợp sau:
- Hai vợ chồng có ĐKKH hợp fáp
- ~ cặp vợ chồng chung sống trước ngày 03/01/1987 trở về trước mà o làm ĐKKH
- Những cặp vợ chồng chung sống trước ngày 01/01/2001 trở về trước đến ngày 01/01/2003 chưa làm ĐKKH
* Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định tại Điều 87 - luật HNGĐ năm 2000
- Xin ly hôn theo y/c một bên ® Vụ án HNGĐ (4 tháng ® kéo dài thêm 2 tháng)
- Thuận tình ly hôn (2 vợ chồng cùng y/c ly hôn) ® Việc HNGĐ (30 ngày)
* Lưu ý:
+ Tr/hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không có ĐKKH or giấy chứng nhận kết hôn vi fạm về thủ tục ĐKKH ® Có đơn gởi Tòa án xin ly hôn ® Tòa án thụ lý vụ án HNGĐ ® Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng
+ Những cặp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng kể từ  03/01/1987  đến 01/01/203 không làm ĐKKH or những cặp nam nũ chung sống với nhau như vợ chồng kể từ 01/01/2001 mà không ĐKKH
Þ Áp dụng K1, Đ11- luật HNGĐ năm 2000 và điểm b,c  khoản 3 – NQ: 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000  thì TA thụ lý và tuyên bố không công nhận vợ chồng; nếu có y/c về con và tài sản thì giải quyết theo K2, K3 Đ17- luật HNGĐ năm 2000 như sau:
. Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn;
. Tài sản được g/q theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì y/c tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.

Câu 18: Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn được quy định như thế nào?
Việc fân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được luật HNGĐ quy định tại điều 95 với các ngtắc sau:
- Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triẻn khối tài sản này. (nghĩa là tùy trường hợp cụ thể mà tòa án có thể có sự ưu tiên I định trên cơ sở xem xét hoàn cảnh của mỗi bên...).
Cần lưu ý khi chia tài sản phải xem xét đến lao động của vợ, chồng trong gia đình (chủ yếu là công việc nội trợ), coi lao động trong gia đình như lao động có thu nhập.
- Bảo vệ lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và o có tài sản để tự nuôi mình.
Thực tế cho thấy, sau khi ly hôn hầu hết người vợ, con chưa thành niên... ngoài việc bị tác động xấu về tâm lý thì bao giờ họ cũng gặp khó khăn hơn trong tổ chức lại và duy trì cuộc sống bình thường, họ phải gánh chịu thiệt thòi nhiều hơn do hậu quả xấu của việc ly hôn vì vậy, việc bảo vệ lợi ích hợp của họ là cần thiết nhằm giúp họ ổn định lại cuộc sống. Đây là quy định thể hiện tính nhân đạo của luật HNGĐ.
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sx, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có ĐK tiếp tục lao động tạo thu nhập.
Nguyên tắc này nhằm hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả xấu của việc ly hôn và việc chia tài sản khi ly hôn, đồng thời tạo sự ổn định về đời sống cũng như hoạt động sx, kinh doanh, nghề nghiệp của các bên, tạo ĐK để họ tạo thu nhập, duy trì cuộc sống bình thường.
- Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị, bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì fải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
Thực tế cho thấy khi giải quyết việc ly hôn thì việc phân chia tài sản của vợ chồng bao giờ cũng phức tạp, vì thế việc định ra nguyên tắc này cho phép tòa án chủ động hơn trong việc chia tài sản, mặt khác cũng tạo cơ sở pháp lý để 2 bên ly hôn chọn lựa cách phân chia (hoặc là nhận hiện vật hoặc là nhận giá trị). điều này giúp cho việc g/q ly hôn có phân chia tài sản được nhanh chóng và thuận lợi.
- Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng do vợ, chồng thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì y/c tòa án g/q.
Khi ly hôn song song với việc phân chia tài sản thì v/đ nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng cũng được g/q (như các khoản nợ chung và các nghĩa vụ tài sản #). Tuy nhiên ngtắc này cho phép vợ, chồng tự thỏa thuận trước V/v phân chia nghĩa vụ (ai chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ hoặc mỗi người thực hiện phần nghĩa vụ nào...) và chỉ khi nào o thỏa thuận được thì TA mới g/q. Đồng thời cũng thể hiện sự tôn trọng, tạo ĐK để vợ, chồng thực hiện đầy đủ quyền định đoạt đ/v tài sản cũng như khuyến khích họ tự g/q về cách phân chia nghĩa vụ chung về tài sản.
  
Câu 19: Phân biệt giữa việc giải quyết ly hôn và hủy việc kết hôn trái pháp luật ?
* Giải quyết cho ly hôn:
Khi vợ, chồng hay cả hai vợ chồng có yêu cầu ly hôn, sau khi thụ lý vụ kiện, Tòa án phải tiến hành đìều tra và hòa giải, nếu hòa giải không thành và xét thấy giữa vợ chồng đã có mâu thuẫn sâu sắc, tình cảm yêu thương giữa vợ chồng không còn nữa, mục đích của hôn nhân không đạt được, Tòa án mới giải quyết cho ly hôn. Nhưng nhìn chung, không phải mọi trường hợp vợ chồng có mâu thuẫn đều được Tòa án quyết định cho ly hôn, Tòa án chỉ chấp nhận cho ly hôn khi việc ly hôn có những căn cứ được Luật HNGĐ quy định.
Nghị quyết số: 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định of Luật HNGĐ năm 2000 đã nêu rõ:
1- Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 của Luật HNGĐ năm 2000: “Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn”.
Trường hợp ly hôn mà cả hai vợ chồng hoặc một bên có yêu cầu ly hôn phải có các các điều kiện sau:
a) Quan hệ hôn nhân đã ở vào tình trạng trầm trọng: Nghĩa là giữa vợ chồng đã có những mâu thuẩn gay gắt không thể dung hòa được, tình cảm đã lạnh nhạt (không còn yêu thương, quý trọng nhau nữa...);
b) Đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài: Nghĩa là giữa vợ chồng không thể chung sống bình thường với nhau và không thể chịu đựng nhau được nữa, thường xuyên sống trong tình trạng căng thẳng ...;
c) Mục đích của hôn nhân (xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững) o đạt được.
Nói chung khi giải quyết việc ly hôn thì Tòa án phải xem xét toàn diện và thận trong các mặt nêu trên. Tuy nhiên thường thì các mặt nêu trên có quan hệ lẫn nhau và không nhất thiết phải hội đủ ba dấu hiệu nêu trên.
2- Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 của Luật HNGĐ năm 2000: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn” (Điều 88 khoản 2 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995).
Quy định này đã cụ thể hóa hậu quả của việc Tòa án tuyên bố công dân bị mất tích trong Bộ luật dân sự của Nhà nước ta. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Cần phải giải phóng cho vợ, chồng thoát khỏi “hoàn cảnh đặc biệt” này, khi họ có yêu cầu được ly hôn với người chồng (vợ) đã bị Tòa án tuyên bố mất tích.
                       
B/ Hủy việc kết hôn trái pháp luật:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật HNGĐ năm 2000 thì kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định, cụ thể là vi fạm một trong các quy định tại Điều 9,10 Luật HNGĐ năm 2000.
Nhà nước không thừa nhận những trường hợp nam, nữ kết hôn mà không tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn. Vì vậy, việc kết hôn trái pháp luật sẽ bị Tòa án nhân dân xử hủy. Hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp xử lý đối với những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn nhằm bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh Luật hôn nhân và gia đình. Đây là biện pháp chế tài của Luật HNGĐ, thể hiện thái độ phủ định của Nhà nước đối với các trường hợp kết hôn trái pháp luật. Điều 16 Luật HNGĐ năm 2000 quy định: “Theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 15 của Luật này, tòa án xem xét và quyết định việc hủy kết hôn trái pháp luật và gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn. Căn cứ vào quyết định của toà án, cơ quan đăng ký kết hôn xóa đăng ký kết hôn trong sổ đăng ký kết hôn”.
Về nguyên tắc, việc kết hôn vi phạm một trong các điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 9 và Điều 10 Luật HNGĐ là trái pháp luật, khi có yêu cầu, tòa án có quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật đó.
Tuy nhiên, hủy việc kết hôn trái pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hai người kết hôn trái pháp luật và con cái của họ. Vì vậy, khi xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật, tòa án phải điều tra làm rõ hành vi vi phạm điều kiện kết hôn, mức độ vi phạm và hoàn cảnh vi phạm, đặc biệt là phải xem xét và đánh giá thực chất mối quan hệ tình cảm giữa họ kể từ khi kết hôn cho đến khi tóa án xem xét cuộc hôn nhân của họ để từ đó tóa án có quyết định xử lý đúng đắn, bảo đảm “thấu lý, đạt tình”.

Câu 20: Bằng các quy định của PL, hãy chứng minh quan điểm “yếu tố tình cảm là căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ PL HNGĐ”.
Các quan hệ PL HNGĐ xuất phát từ sự kiện kết hôn, từ huyết thống hoặc nuôi dưỡng, là những sự kiện, trạng thái có tính chất đặc biệt không giống như các hợp đồng, nghĩa vụ dân sự. Do đó trong quan hệ PL HNGĐ thì yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là 1 nét đặc trưng và trong rất nhiều trường hợp yếu tố tình cảm đó QĐ việc xác lập, tồn tại hay chấm dứt quan hệ HNGĐ.
Trong việc kết hôn, PL quy định: 2 bên nam nữ khi kết hôn, ngoài việc phải đảm bảo các ĐK kết hôn được quy định tại điều 9 và o thuộc 1 trong các trường hợp quy định tại điều 10 của luật HNGĐ năm 2000 họ còn fải tỏ rõ ý chí của cả 2 bên XD qhệ vợ chồng cùng nhau. Sự ưng thuận này của cả 2 bên đều xuất phát từ tình yêu, tình cảm của 2 người mong muốn gắn bó với nhau trong qhệ vợ chồng, đảm bảo XD gia đình XNCH thật sự dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc và bền vững. PL HNGĐ cũng o thừa nhận bất cứ trường hợp hôn nhân nào vì mục đích KT, lừa dối hay giả mạo và chỉ thừa nhận hôn nhân bắt nguồn từ tình yêu, tình cảm giữa 2 bên nam nữ.
Điều 18 luật HNGĐ năm 2000 quy định :”Vợ chồng chung thủy thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, bình đẵng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững”. Qua điều luật trên cho ta thấy yếu tố tình cảm of vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân càng trở nên quan trọng hơn, nó góp phần rất lớn trong việc xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc và bền vững.  

Câu 21: Phân tích đường lối g/q các trường hợp ly hôn theo luật định.
* Đường lối g/q các trường hợp ly hôn theo luật định:
- Về ngtắc chung, TA thụ lý đơn y/c ly hôn theo quy định của PL về TTDS. ¤ trường hợp o ĐKKH mà có y/c ly hôn thì TA thụ lý và tuyên bố o công nhận qhệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 điều 11 của luật HNGĐ năm 2000; nếu có y/c về con và tài sản thì g/q theo quy định tại khoản 2, khoản 3 điều 17 luật HNGĐ 2000.
- Đ/v cả trường hợp 1 bên vợ, chồng có y/c ly hôn hoặc cả 2 vợ chồng xin thuận tình ly hôn, xét thấy hợp lý, sau khi thụ lý đơn của vợ, chồng hoặc của 2 vợ chồng, tòa án đều phải tiến hành điều tra HG. HG cả ¤ tố tụng và ngoài tố tụng.
HG là dựa trên cơ sở của công tác điều tra, khi đã nắm được ngnhân, mức độ >< giữa vợ chồng, ĐK công tác, hoàn cảnh cụ thể của gia đình, TA cần giải thích, khuyên nhủ, động viên giáo dục, giúp đỡ đương sự hàn gắn những rạn nứt, >< ¤ quan hệ HNGĐ. Để đạt được ý nghĩa, mục đích của công tác HG là nhằm đoàn tụ gia đình, cán bộ xét xử phải nhận thức rõ tầm quan trọng của thủ tục HG. Nếu tiến hành HG chỉ bảo đảm về mặt thủ tục, chỉ tiền hành qua loa, đại khái, mang tính hình thức thì việc HG sẽ o đạt được kết quả.
Thực tế cho thấy, thông thường khi 2 vợ chồng đã có ><, có đơn y/c ly hôn thì giữa họ khó có thể tự giàn xếp mâu thuẩn gia đình, vợ chồng. Lúc này, tác động của người thứ 3 (tòa án) với tấm lòng nhân ái, trách nhiệm, sẽ có vai trò quan trọng đ/v việc củng cố hạnh phúc của gia đình, vợ chồng đương sự. ¤ công tác HG, TA o phải chỉ kêu gọi họ quay trở lại yêu thương nhau mà cần giáo dục họ quan điểm HN tiến bộ, đạo đức XHCN, nghĩa vụ giữa vợ chồng, hậu quả của việc ly hôn ...
Vì vậy, để công tác điều tra và HG đạt kết quả tốt, đòi hỏi người thẩm phán, ngoài hiểu biết về PL còn phải có trình độ hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người, trình độ chính trị, văn hóa, sự am hiểu về phong tục tập quán cũng như các p2 xử lý #, quán triệt phương châm “kiên trì, còn nước còn tát”.   
Thủ tục HG các việc ly hôn ở cơ sở có ý nghĩa rất qtrọng, tuy nhiên theo luật định, thủ tục HG được áp dụng đ/v các việc ly hôn do TAND tiến hành là thủ tục pháp lý bắt buộc phải có; nếu ¤ các hồ sơ về ly hôn mà o có biên bản hòa giải o thành thì bản án hoặc QĐ ly hôn của TA sẽ bị hủy. Trường hợp HG thành, qhệ vợ chồng đoàn tụ, nếu hòa giải o thành, tòa án tiến hành lập biên bản hòa giải o thành và QĐ đưa vụ kiện ly hôn ra xét xử.
Quá trình g/q các vụ việc ly hôn cần phân biệt ngnhân, lý do, động cơ ly hôn của đương sự với căn cứ ly hôn theo luật định.
Ng/nhân ly hôn là những sự việc, hiện tượng tác động đến HN và làm HN tan vỡ (đó là qhệ nhân quả).
Lý do ly hôn là cái cớ mà đương sự dựa vào đó để y/c TA cho ly hôn (thường là lỗi của bị đơn). Như vậy, lý do ly hôn thường trùng với ngnhân gây nên >< vợ chồng. Thực tế ở nước ta hiện nay, những ngnhân hoặc lý do xin ly hôn của đương sự thường là do vợ, chồng ngoại tình; do >< gia đình; do vợ chồng tính tình o hợp; do 1 bên o có khả năng sinh con hoặc mất bệnh vô sinh) hoặc o có con trai; do 1 bên vợ, chồng phạm tội hoặc vượt biên trốn đi nước ngoài ... thông thường đó là lỗi của bị đơn. Động cơ xin ly hôn là trạng thái tâm lý bên ¤ của đương sự, thúc đẩy đương sự xin ly hôn (EX: đương sự xin ly hôn với mục đích để lấy vợ khác trẻ, đẹp hơn, có ĐK kinh tế hơn...)
Phải nhận thức rằng khi xin ly hôn, các đương sự thường xuất phát từ lý do, động cơ ly hôn chính đáng hoặc o chính đáng, tòa án o dựa vào lý do để g/q cho hoặc o cho ly hôn; hoàn toàn o được dựa vào lỗi của đương sự chỉ là những tình tiết tham khảo, trên cơ sở đó tòa án g/q cho ly hôn được đúng đắn, chính xác. Khi g/q ly hôn tòa án phải nhìn nhận khách quan, đánh giá đúng bản chất của v/đ. ¤ mọi trường hợp ly hôn dù 1 bên vợ, chồng y/c hoặc cả 2 vợ chồng thuận tình ly hôn, nếu hòa giải o thành, TA chỉ được g/q cho ly hôn nếu xét thấy “tình trạng trầm trọng, đời sống chung o thể kéo dài, mục đích của HN o đạt được” (căn cứ ly hôn theo luật định).
* Có 2 trường hợp ly hôn theo luật định:
a. Thuận tình ly hôn:
Đây là trường hợp cả 2 vợ chồng đều tự nguyện xin ly hôn. Theo điều 90 luật HNGĐ năm 2000 quy định: Trong trường hợp vợ chồng cùng y/c ly hôn mà HG tại tòa án o thành, nếu xét thấy 2 bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì tòa án công nhận thuận tình ly hôn về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì tòa án QĐ.
Như vậy, việc chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn phải được tiến hành ở TAND, PL quy định việc thuận tình ly hôn là công nhận và bảo đảm quyền tự do ly hôn chính đáng của cả 2 bên vợ chồng.
Mục 9 của NQ số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng 1 số quy định của luật HNGĐ năm 2000 chỉ rõ:
- ¤ trường hợp vợ chồng cùng y/c xin ly hôn thì tòa án vẫn phải tiến hành HG. ¤ trường hợp tòa án hòa giải o thành thì tòa án lập biên bản V/v tự nguyện ly hôn và hòa giải đoàn tụ o thành. ¤ thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản nếu vợ hoặc chồng hoặc cả 2 vợ chồng o có sự thay đổi ý kiến cũng như VKS o có phản đối sự thỏa thuận đó, thì tòa án ra QĐ công nhận thuận tình ly hôn mà o phải mở phiên tòa khi có đầy đủ các ĐK sau:
+ 2 bên thật sự tự nguyện ly hôn.
+ 2 bên đã thỏa thuận được với nhau V/v chia hoặc o chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
+ Sự thỏa thuận của 2 bên về tài sản và con ¤ tr/ hợp cụ thể này là bảo đảm qlợi chính đáng của vợ và con.
QĐ công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực PL ngay, các bên o có quyền kháng cáo, VKS o có quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
- ¤ trường hợp HG tại TA mà thiếu 1 ¤ các ĐK được nêu tại phần trên thì TA lập biên bản V/v HG giải đoàn tụ o thành, về những v/đ 2 bên o thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng o bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con, đồng thời tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục chung.
Lưu ý: ¤ những năm gần đây đã xuất hiện 1 số trường hợp thuận tình ly hôn giả tạo, lừa dối cơ quan PL, nhằm mưu cầu lợi ích riêng. Họ tự nghĩ ra những >< và lý do ly hôn nhìn bề ngoài có vẻ chính đáng nhưng thực tế họ lại o mong muốn chấm dứt qhệ vợ chồng và giữa họ o hề có ><. Nếu o điều tra kỹ, dễ dẫn đến trường hợp TA có thể kết luận là có đủ căn cứ để công nhận thuận tình ly hôn. Như vậy, chúng ta đã mắc lừa họ và họ sẽ đạt được mục đích riêng như thuận tình ly hôn giả nhằm chuyển hộ khẩu; lấy vợ lẽ hoặc tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đ/v tài sản khác...
¤ những trường hợp này, TA cần xử bác đơn xin ly hôn của đương sự, đồng thời nghiêm khắc phê phán, giáo dục đương sự với những hành vi sai trái đó.
b. Trường hợp ly hôn do 1 bên vợ hoặc chồng y/c:
NQ số 02/2000/NQ/HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn tại mục 10 như sau:
- Khi 1 bên vợ hoặc chồng y/c ly hôn thì TA phải tiến hành HG. Nếu HG đoàn tụ thành mà người y/c xin ly hôn rút đơn y/c xin ly hôn thì tòa án áp dụng điểm 2 điều 46 pháp lệnh thủ tục g/q các vụ án dân sự, ra QĐ đình chỉ việc g/q vụ án.
Nếu người xin ly hôn o rút đơn y/c xin ly hôn thì tòa án lập biên bản hòa giải đoàn tụ thành. Sau 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản, nếu vợ hoặc chồng hoặc cả 2 vợ chồng o có sự thay đổi ý kiến cũng như VKS o phản đối thì tòa án QĐ công nhận hòa giải đoàn tụ thành. QĐ công nhận hòa giải đoàn tụ thành có hiệu lực PL ngay và các đương sự o có quyền kháng cáo, VKS o có quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
- Trong trường hợp HG đoàn tụ o thành thì TA lập biên bản hòa giải đoàn tụ o thành, đồng thời mở phiên tòa xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục chung.
- Đ/v trường hợp người vợ, người chồng của người bị tòa án tuyên bố mất tích có quyền y/c ly hôn, tại mục 8 NQ 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn như sau:
+ Theo quy định tại khoản 2 điều 89: ”¤ trường hợp vợ hoặc chồng tuyên bố của người bị tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì tòa án g/q cho ly hôn”. Thực tiễn cho thấy có thể xảy ra 2 trường hợp như sau:
. Người vợ hoặc chồng đồng thời y/c tòa án g/q cho ly hôn. ¤ trường hợp này nếu TA tuyên bố người đó mất tích thì g/q cho ly hôn; nếu TA thấy chưa đủ ĐK tuyên bố người đó mất tích thì bác các y/c của người vợ hoặc chồng.
. Người vợ hoặc chồng đã bị TA tuyên bố mất tích theo y/c của người có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi bản án của TA tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất tích có hiệu lực PL thì người vợ hoặc người chồng của người đó có y/c xin ly hôn với người đó. ¤ trường hợp TA g/q cho ly hôn.
. Khi TA g/q cho ly hôn với người bị tuyên bố mất tích thì cần chú ý g/q việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo đúng quy định tại điều 89 bộ luật dân sự.
Ngoài ra, cần lưu ý là ¤ trường hợp 2 vợ chồng xin thuận tình ly hôn, sau khi điều tra, HG, TA xét thấy 1 bên vợ, chồng o tự nguyện ly hôn (do cưỡng ép, bị lừa dối ly hôn, hoặc do sĩ diện, tự ái dẫn đến việc xin thuận tình ly hôn, thì TA bác đơn xin thuận tình ly hôn mà o g/q theo thủ tục 1 bên vợ, chồng có y/c ly hôn.                    

Câu 22: Phân tích nội dung căn cứ ly hôn.
* Nội dung căn cứ ly hôn:
Khi vợ, chồng hay cả 2 vợ chồng có y/c ly hôn, sau khi thụ lý vụ kiện, TA phải tiến hành điều tra và HG, nếu HG o thành và xét thấy giữa vợ, chồng đã có >< sâu sắc, tình cảm yêu thường giữa vợ chồng o còn nữa, mục đích của HN o đạt được, TA mới g/q cho ly hôn.
Điều 89 luật HNGĐ năm 2000 quy định như sau:
- TA xem xét y/c ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung o thể kéo dài, mục đích của hôn nhân o đạt được thì TA QĐ cho ly hôn.
- ¤ trường hợp vợ or chồng của người bị TA tuyên bố mất tích xin ly hôn thì TA g/q cho ly hôn.
Theo quy định tại khoản 1 điều 89 thì TA QĐ cho ly hôn nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung o thể kéo dài, mục đích của HN o đạt được.
- Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
+ Vợ, chồng o thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như: Người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhỡ, hòa giải nhiều lần.
+ Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như: Thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ or cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhỡ, hòa giải nhiều lần.
+ Vợ, chồng không chung thủy với nhau, như: Có quan hệ ngoại tình, đã được người chồng hoặc người vợ hay bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhỡ, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có hành vi ngoại tình.
- Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn ở mục trên. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhỡ, hòa giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng o thể kéo dài được.  
Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài” thì thường dẫn tới hậu quả làm cho “mục đích của hôn nhân không đạt được”. Mục đích của hôn nhân là nhằm XD gia đình no ấm, bình đẵng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Tờ trình về dự luật HNGĐ năm 1959 của Chính phủ trước QH đã chỉ rõ: “Mục đích của hôn nhân trong chế độ ta là XD những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hòa thuận, trong đó mọi người thương yêu, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và bảo đảm cho nòi giống được lành mạnh, tương lai con cái được tốt đẹp, cho XH được phát triển thịnh vượng và làm cho mọi người trong gia đình đều phấn khởi lao động sản xuất, cùng nhau cải thiện đời sống và kiến thiết tổ quốc”. Điều đó thể hiện mối quan hệ hài hòa, gắn bó giữa mặt riêng tư và mặt XH trong quan hệ hôn hhân.
Mặt riêng tư trong quan hệ hôn nhân là hạnh phúc của bản thân vợ chồng trong quan hệ hôn nhân. Hạnh phúc của vợ chồng không phải chỉ có tình yêu giữa vợ chồng với nhau mà còn bao gồm nhiều mặt trong đời sống của vợ chồng nói riêng và của gia đình nói chung. Trong hạnh phúc của vợ chồng còn có niềm vui sướng tự hào về trách nhiệm đ/v gia đình và XH mà họ đã làm tròn.
Lợi ích của XH trong HN thể hiện sự tồn tại vững bền của bản thân mối qhệ hôn nhân của mỗi cặp vợ chồng. Không chỉ vợ chồng, các con mà cả NN và XH đều quan tâm tới việc XD và củng cố quan hệ HN, làm sao cho HN được bền vững, gia đình hòa thuận, hạnh phúc. Sự bền vững của HN là sự bền vững của từng gia đình và làm cho XH bền vững. ¤ 1 gia đình đầm ấm, hạnh phúc thì các thành viên của gia đình đều phấn khởi ¤ lao động, sản xuất, tạo ra nhiều SP cho XH. Con cái được chăm sóc, giáo dục trở thành công dân có ích cho XH.
Lợi ích của XH còn thể hiện trong HN qua việc bảo đảm lợi ích của các con. Gia đình, nhà nước và XH đều phải có nghĩa vụ trong việc chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ, bảo đảm cho các em trở thành công dân có ích cho XH. Qua thực tế và lý luận cho thấy những đức tính tốt đẹp của con người được phát triển trong 1 gia đình tốt thì chính trong tập thể gia đình đó sẽ mang lại cho XH những con người có phẩm chất đạo đức tốt, vững vàng, kiên định, dám vượt mọi khó khăn vì nghĩa lớn, vì CNXH.
¤ chế độ XHCN, lợi ích của mỗi th/viên ¤ gia đình, lợi ích của gia đình và lợi ích của XH gắn bó với nhau.
Nói cách khác, hạt nhân của XH tồn tại không bình thường và lành mạnh, quan hệ vợ chồng tồn tại không còn có lợi cho gia đình và cho XH thì ly hôn là tất yếu không thể tránh khỏi.    
“Tình trạng trầm trọng, life chung o thể kéo dài, mục đích của HN o đạt được” có mối liên hệ với nhau. Qhệ vợ chồng đã ở vào tình trạng trầm trọng, life chung o thể kéo dài sẽ dẫn tới hậu quả là mục đích của HN o đạt được. o thể có 1 gia đình đầm ấm, hạnh phúc khi giữa vợ chồng đã có >< sâu sắc, họ o còn muốn sống chung, thậm chí o muốn nhìn mặt nhau nữa.
Theo quy định tại khoản 2 điều 89 luật HNGĐ năm 2000: “Trong trường hợp vợ or chồng của người bị TA tuyên bố mất tích xin ly hôn thì TA g/q cho ly hôn”. Quy định này đã cụ thể hóa hậu quả của việc TA tuyên bố công dân bị mất tích trong BLDS của NN ta. Trong quan hệ HN và GĐ, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Cần phải giải phóng cho vợ, chồng thoát khỏi “hoàn cảnh đặc biệt” này, khi họ có y/c được ly hôn với người chồng (vợ) đã bị TA tuyên bố mất tích.
Như vậy, căn cứ ly hôn theo luật HN và GĐ năm 2000 của nhà nước ta được quy định dựa trên quan điểm của CN mác lênin, có cơ sở khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm cho thấy mấy chục năm qua, từ khi nhà nước ta ban hành luật HNGĐ năm 1959. Khi giải quyết ly hôn, không thể hiểu đơn thuần “Tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” là tình yêu giữa vợ, chồng không còn nữa mà điều đó nói lên 1 thực trạng HN đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng không thể tồng tại được nữa, vì “sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối” và ly hôn là 1 giải pháp tích cực để giải phóng cho vợ chồng cũng như các thành viên khác trong gia đình khỏi cảnh “bất bình thường” đó, bảo đảm lợi ích của vợ chồng, của gia đình và của XH.    

Câu 23: Phân tích hậu quả pháp lý của việc ly hôn
Xét về mặt XH ly hôn ảnh hưởng sâu sắc đến lợi ích của vợ, chồng, gia đình và XH. Từ góc độ pháp luật việc tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định: chấm dứt quan hệ vợ chồng, đồng thời tòa án cần phải giải quyết các vấn đề chia tài sản giữa vợ chồng, QĐ cấp dưỡng cho người vợ, chồng gặp khó khăn, túng thiếu sau khi ly hôn và về vấn đề con cái (nếu có).
a/ Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng:
Theo nguyên tắc chung, khi bản án, QĐ ly hôn của tòa án có hiệu lực pháp luật, quan hệ vợ chồng được chấm dứt. Người vợ, chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người khác. Sau khi ly hôn các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng sẽ chấm dứt hoàn toàn, dù vợ chồng có thỏa thuận hay không thỏa thuận được thì tòa án cũng sẽ QĐ. Nghĩa là những quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng phát sinh từ khi kết hôn, gắn bó tương ứng giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân (như nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau tiến bộ, nghĩa vụ chung thủy giữa vợ, chồng, quyền đại diện cho nhau...) sẽ đương nhiên chấm dứt. Một số quyền nhân thân khác mà vợ chồng với tư cách là công dân thì không ảnh hưởng, không thay đổi dù vợ, chồng đã ly hôn (như các quyền về họ, tên, tôn giáo, dân tộc, quốc tịch, nghề nghiệp...)
Trong XH ta hiện nay, thực tế có 1 số trường hợp vợ chồng đã ly hôn, phán quyết ly hôn của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, sau đó vợ chồng lại tái hợp chung sống với nhau mà o đăng ký kết hôn theo thủ tục luật định. Họ chung sống với nhau được 1 thời gian, giữa họ lại có con chung, có tài sản chung và vì lý do nào đó, sau này họ lại có yêu cầu “chấm dứt hôn nhân về ly hôn”. Theo hướng dẫn của TANDTC, trường hợp này tòa án o g/q việc ly hôn nữa. Theo điều 57 BLDS quy định trường hợp vợ, chồng đã ly hôn, phán quyết ly hôn của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nếu kết hôn với nhau vẫn phải đăng ký kết hôn theo thủ tục luật định (điều 11, điều 14 luật HNGĐ năm 2000; NQ 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của QH đã quy định về tình trạng nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà o đăng ký kết hôn sẽ o được PL thừa nhận là vợ chồng. Việc “kết hôn” o đăng ký (trước đây gọi là “hôn nhân thực tế”) kể từ ngày 01/01/2001 (là ngày luật HNGĐ có hiệu lực PL) đã bị xóa bỏ).
b. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn:
Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là 1 v/đ phức tạp, thường có nhiều tranh chấp giữa vợ chồng khi ly hôn và gặp nhiều vướng mắc trong thực tiễn xét xử nhiều năm qua ở nước ta. Để đảm bảo chia công bằng và hợp lý, trường hợp vợ chồng o thể tự thỏa thuận được với nhau, tòa án cần phải điều tra về quan hệ tài sản của vợ chồng: Xác định đâu là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng; những tài sản thuộc khối tài sản chung của 2 vợ chồng; xác định nguồn gốc, giá trị, số lượng, tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình, cũng như công sức đóng góp của mỗi bên vợ chồng như thế nào... sau đó, tòa án áp dụng các nguyên tắc quy định tại điều 95 luật HNGĐ năm 2000 để chia, kết hợp với từng trường hợp cụ thể được quy định tại các điều 96, 97, 98, 99 luật HNGĐ; nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của mỗi bên vợ chồng cũng như những thành viên khác trong gia đình có liên quan.
Trước hết, theo các nguyên tắc quy định tại điều 95 luật HNGĐ thì việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì y/c tòa án g/q. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó (k1 điều95). Như vậy, việc chia tài sản của vợ chồng trước hết sẽ do vợ chồng tự thỏa thuận (sự thỏa thuận này phải phù hợp với các nguyên tắc của luật hôn nhân và gia đình). Trước đây, theo quy định tại điều 42 luật HNGĐ 1986 thì sự thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn “phải được tòa án nhân dân công nhận. Vậy, cần có hướng dẫn cụ thể của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về v/đ này để hiểu rõ tinh thần của điều luật, tránh việc áp dụng tùy tiện, ngăn cản việc vợ, chồng tự thỏa thuận chia tài sản khi ly hôn nhằm tẩu tán tài sản, lẫn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đ/v người khác.
Nếu vợ chồng o thỏa thuận được với nhau thì y/c tòa án g/q. We biết rằng trong thực tiễn xét xử nếu đương sự tự thỏa thuận với nhau hoặc TAND hướng dẫn, giải thích, giúp đỡ để các đương sự tự dàn xếp, thỏa thuận dưới sự giám sát và công nhận của TAND là 1 biện pháp hữu hiệu hơn cả, tránh được những >< bất đồngsau khi ly hôn. Nói chung, cũng giống như các vụ kiện dân sự khác, nếu tòa án tiến hành hòa giải thành thì việc g/q các vụ tranh chấp có nhiều thuận lợi hơn, vừa bảo đảm đúng PL, đoàn kết trong quần chúng, vừa giúp cho việc thi hành án được thuận lợi, nhanh chóng, vì “sự thỏa thuận” phù hợp với ý chí nguyện vọng của các bên đương sự. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được với nhau. Tòa án sẽ QĐ.
Tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó. Sau khi ly hôn, vợ chồng có tài sản riêng thì có quyền lấy về. Tuy nhiên, người có tài sản riêng phải chứng minh được đó là tài sản riêng của mình (điều 32). Việc chứng minh có thể bằng sự công nhận của bên kia hoặc bằng các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu riêng của mình (các văn tự, di chúc hoặc các chứng cứ khác chứng tỏ tài sản đó là tài sản riêng của vợ, chồng). Trong tr/hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tTS chung (khoản 3 điều 27).
Khi chia tài sản là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng mà có tranh chấp, cần lưu ý đã có sự trộn lẫn, ẩn chứa các loại tài sản chung và tài sản riêng trong quá trình sử dụng ở thời kỳ hôn nhân. Trong trường hợp vợ, chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản chung đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa thì người có tài sản riêng không có quyền đòi lại hoặc đền bù. Có trường hợp tài sản riêng tăng giá trị lên rất nhiều lần vì người có tài sản riêng đã dùng tài sản chung để tu sửa làm tăng giá trị cho tài sản riêng của mình. Tòa án cần xác định phần tăng giá trị đó, nhập vào tài sản chung để chia.
Đ/v những đồ trang sức mà vợ, chồng được cha mẹ vợ (cha mẹ chồng) tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng; nhưng nếu những thứ đó được cho chung cả hai người với tính chất là tạo dựng cho vợ chồng 1 số vốn thì coi là tài sản chung.
Trong trường hợp người vợ hay chồng đã vay mượn tiền bạc của người khác để chi dùng cho mục đích, nhu cầu riêng thì vợ hoặc chồng phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng (khoản 3 điều 33). Nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ để thanh toán thì phải thanh toán bằng phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của vợ chồng hoặc vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau để thanh toán bằng tài sản chung của vợ chồng.
Trường hợp con đã thành niên đóng góp đáng kể vào việc xây dựng và phát triển tài sản của cha mẹ thì được trích chia phần đóng góp của họ trong phần tài sản của cha mẹ khi ly hôn, theo yêu cầu của người con đó. Nếu con chưa thành niên mà có tài sản riêng (tài sản do được tặng cho, thừa kế hoạch thu thập hợp pháp của con) thì tòa án không chia: tòa án QĐ sẽ giao cho người nào nuôi giữ, chăm sóc, giáo dục đứa con đó quản lý tài sản riêng của con. Đ/v tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn mà vợ chồng không thỏa thuận được với nhau, có yêu cầu tòa án giải quyết thì tòa án QĐ theo nguyên tắc quy định tại khoản 2, khoản 3 điều 95.
TAND cần xác định đúng khối tài sản chung của vợ chồng hiện có những tài sản nào (điều 27). Trong tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm các quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đ/v người khác (như tiền tiết kiệm là tài sản chung của vợ chồng gửi ở ngân hàng; những món nợ mà vợ chồng đã vay trước đó sử dụng vào đời sống chung cần phải trả; những món nợ mà vợ chồng cho người khác vay có quyền đòi... Những tài sản riêng mà vợ chồng đã tự nguyện nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng; những loại tài sản nào có thể chia được bằng hiện vật hoặc o chia được bằng hiện vật hoặc không chia được bằng hiện vật, phải chia bằng tiền;...)  
c/ Giải quyết cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn: 
Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng là quy kết của qhệ hôn nhân hợp fáp, fát sinh kể từ khi kết hôn. Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng là 1 trong những quyền và ngh/vụ tài sản gắn liền với nhân thân của vợ và chồng. PL thừa nhận và bảo đảm thực hiện qhệ cấp dưỡng giữa vợ chồng, kể cả trong trường hợp vợ chồng ly hôn.
Điều 60 luật HNGĐ năm 2000 quy định: “Khi ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”.
Như vậy, theo luật định, g/q việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn được đặt ra khi có các ĐK:
- 1 bên vợ, chồng khó khăn, túng thiếu có y/c cấp dưỡng mà có lý do chính đáng.
- Bên kia có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Trường hợp vợ, chồng túng thiếu, có khó khăn cần được cấp dưỡng để ổn định cuộc sống phải là trưởng hợp ốm đau, hạn chế hoặc không còn khả năng lao động để sinh sống (hoặc có lý do chính đáng khác). Đ/v người có khả năng lao động mà không chịu lao động thì tòa án không g/q cấp dưỡng. Điều này phù hợp với nguyên tắc của cuộc sống dưới chế độ XHCN, tránh tình trạng ỷ lại, dựa dẫm, lười lao động.
d/ Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con sau khi ly hôn:
Điều 92 luật HNGĐ quy định:
- Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nôm, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
- Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đ/v con; nếu không thỏa thuận được thì tòa án QĐ giao con cho 1 bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc con dưới 3 tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Vì lợi ích of các con, theo y/c của 1 bên or cả 2 bên, TA có thể QĐ thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện ¤trường hợp người trực tiếp nuôi con o đảm bảo quyền lợi về mọi mặt of con và fải tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên (Đ93).
Cùng với việc giao con cho ai nuôi dưỡng, giáo dục, TA đồng thời g/q việc cấp dưỡng nuôi con (k11 điều8) phù hợp với các quy định về ĐK cấp dưỡng, mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Các con được cha mẹ cấp dưỡng gồm có con đẻ và con nuôi là con chung của 2 vợ chồng. Về nguyên tắc, cha mẹ phải cấp dưỡng nuôi con cho đến khi con đã thành niên (đủ 18 tuổi). Trong trường hợp con đã thành niên mà bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không cò tài sản để tự nuôi mình thì cha mẹ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho đến khi con khỏi bệnh, phục hồi sức khoẻ và có thể lao động tự túc được.
Về mức cấp dưỡng nuôi con phải bao gồm cả ăn, mặc, học hành, chữa bệnh... và các khoản phí tổn khác của con. Phải bảo đảm sy/c tối thiểu về đời sống của con, đồng thời tòa án căn cứ vào hoàn cảnh và khả năng kinh tế của l phải cấp dưỡng và l được giao trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con để QĐ mức cấp dưỡng cho hợp lý.
Về v/đ này, tại mục 11 NQ số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn: “khi áp dụng quy định tại điều 92 cần chú ý 1 số điểm sau đây:
- Theo quy định tại khoản 1 điều 92 thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không. Người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không y/c người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì TA cần giải thích cho họ hiểu rằng việc y/c cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không y/c cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, ĐK nuôi dưỡng con thì TA không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.
- Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp các bên o thỏa thuận được thì tùy vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà QĐ mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý.
- Về phương thức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận đình kỳ hàng tháng, quý, nữa năm, hàng năm hoặc 1 lần. Trong trường hợp các bên o thỏa thuận được thì  TA QĐ phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.
- Trong trường hợp vợ chồng o thỏa thuận được về 1 người trực tiếp nuôi con thì TA QĐ giao con cho 1 bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các ĐK cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các ĐK cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên, thì trước khi QĐ, TA phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai.
Về nguyên tắc, con dưới 36 tháng tuổi (3 tuổi) được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Bên cạnh việc quy định giao con cho ai nuôi, mức cấp dưỡng nuôi con, Điều 94 đã quy định về quyền thăm nom con sau khi ly hôn. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền y/c TA hạn chế quyền thăm nom con của người đó.         































































BÀI TẬP: Chị Ngọc kết hôn với anh Hoàng vào tháng 10 năm 2000 nhưng không đăng ký kết hôn, song được hai bên gia đình, người thân và bạn bè chứng kiến. Hai vợ chồng có một cháu gái 2 tuổi. Sau thời gian chung sống, giữa hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẩn gay gắt và xét thấy không thể hàn gắn được. Chồng chị Ngọc muốn ly hôn nhưng chị Ngọc lại không muốn ly hôn. Hỏi: Nếu anh Hoàng gởi đơn đến Tòa án nhân dân thì Tòa án nhân dân có nhận đơn và giải quyết theo ý muốn của anh Hoàng không ?
* Căn cứ theo điểm b, khoản 2 của Thông tư liên tịch số: 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10  ngày 09/6/2000 của Quốc hội “Về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình” quy định: Đối với trường hợp nam và nũ chung sống với nhau như vợ chồng từ 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà có đủ điều kiện kết hôn, nhưng chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng thì theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội họ có nghĩa vụ đăng ký kết hôn kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003. Kể từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội, họ không được công nhận là vợ chồng; nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Tòa án thụ lý vụ án để giải quyết và áp dụng điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội, khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, bằng bản án tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng; nếu họ có yêu cầu về nuôi con và chia tài sản, thì Tòa án áp dụng khoàn 2 và khoản 3 Điều 17 Luật HN&GĐ năm 2000 để giải quyết theo thủ tục chung.
* Như vậy, trong trường hợp trên do Chị Ngọc kết hôn với anh Hoàng vào tháng 10 năm 2000 nhưng không đăng ký kết hôn, mặc dù được hai bên gia đình, người thân và bạn bè chứng kiến và hai vợ chồng đã có một cháu gái 2 tuổi. Sau thời gian chung sống, giữa hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẩn gay gắt và xét thấy không thể hàn gắn được. Chồng chị Ngọc muốn ly hôn nhưng chị Ngọc lại không muốn ly hôn.
Nếu anh Hoàng gởi đơn đến Tòa án nhân dân yêu cầu ly hôn, thì Tòa án thụ lý vụ án để giải quyết và áp dụng điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội, khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, bằng bản án tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng; nếu họ có yêu cầu về nuôi con và chia tài sản, thì Tòa án áp dụng khoàn 2 và khoản 3 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết theo thủ tục chung. Cụ thể như sau:

+ Quan hệ giữa cha mẹ và con: Áp dụng khoản 2 Điều 17 và Điều 92, Điều 93, Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:
- Nếu hai bên tự nguyện thỏa thuận giao con cho ai nuôi thì Tòa án công nhận (= bản án).
- Nếu có tranh chấp xảy ra thì giao cho mẹ nuôi do hai vợ chồng đã có con được 2 tuổi (dưới 3 tuổi).
+ Quan hệ tài sản: Áp dụng khoản 3 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 231 Bộ luật Dân sự năm 1995:
- Tài sản của riêng ai thì vẩn thuộc quyền sở hữu của người đó.
- Tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của các bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình./

1 nhận xét: